Người tu Phật phải thực hành được những gì mình đã học. Bởi pháp là kinh nghiệm của cổ nhân, kinh nghiệm của người khác, không thể nuôi sống huệ mạng của chính mình. Học hiểu Phật pháp để tự biết cách khai triển lại tâm ta, cho nên trong nhà Phật quý ở chỗ thực hành. Nói được làm được gọi là ngôn hạnh tương ưng, đó mới đúng là tư cách của thiền tăng. Nếu thực hành được chúng ta sẽ tránh được những điều này: Một là không tranh, hai là không tham, ba là không cầu, bốn là không ích kỷ, năm là không tư lợi, sáu là không vọng ngữ.
Ở đây, chỉ giải thích đơn cử một vài điều thôi, như tranh tức là tranh cãi, tranh giành, tranh chấp, tranh đấu… Ví dụ ăn cơm chung một mâm bốn vị, ta thấy vị nào cũng có thức ăn, riêng mình lại không có, trong đầu liền nổi lên tranh đấu. Tại sao mình như vầy mà không được như thế như thế, đủ thứ chuyện. Cho nên làm sao buông bỏ được sự đấu tranh, trừ đấu tranh để loại bỏ những thói hư tật xấu. Vì vậy khi hiểu Phật pháp, quan trọng ở phần hành.
Kế đến ta thể hiện tấm lòng tha thứ, buông xả, không tham cầu, không đắm trước. Điều này nói thì dễ nhưng làm khó lắm. Ví dụ như trời đang nóng bức, chúng ta mong muốn có được một luồng gió mát, đó là chiều theo sự đòi hỏi hưởng thụ của thân, chưa thể làm chủ được. Phật Tổ dạy rất giản dị, người tu thì nóng bức cũng được, lạnh lẽo cũng được, khó khăn cũng được mà sung sướng cũng được. Chúng ta đôi khi khó khăn lại tu được mà sung sướng tu không được, nóng bức tu được mà lạnh lẽo tu không được, hoặc lạnh lẽo tu được mà nóng bức lại bỏ chạy. Lúc nào cũng vậy, được cái này không được cái kia, vì vậy không bao giờ thành tựu được sở nguyện.
Không mong cầu thì không thất vọng, không chán nản, không đau khổ. Đó là lợi ích thiết thực trước mắt. Nhà lầu, xe hơi, tất cả mọi thứ cho đến thân này chỉ có trong một thời gian rồi tan mất hết. Ta có muốn ôm giữ nó cũng không giữ được, rõ ràng như vậy. Tranh danh đoạt lợi có được đến đâu, tới lúc tắt thở cũng phải buông xuôi. Không đợi đến chết, ngay bây giờ mà một dây thần kinh hay một mạch máu bị đứt mạch thì tất cả đều trở thành vô nghĩa. Khi đó chẳng những tấm thân này làm khổ mình mà còn khổ cho thiên hạ nữa. Hiểu như vậy thì ta sống bình an với những gì hiện có.
Cuối cùng là vọng ngữ, cái miệng của mình tội lỗi ghê lắm. Người biết tu Phật phải gìn giữ cái miệng của mình. Nói ngược nói xuôi, nói trên nói dưới, nói tốt nói xấu, nói để người ta sống chết… cũng từ cái miệng của mình. Cho nên Phật dạy tu cái miệng tức là tu cái ý. Do ý phóng túng chạy theo vọng tâm điên đảo mà mình có lời nói và hành động gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi. Cho nên trong công phu tu hành, nếu không vì lợi ích cho người hoặc cứu người, nhất định không được vọng ngữ.
Chúng ta giữ không tranh, không tham, không tư lợi, không ích kỷ, không mong cầu, cuối cùng đừng vọng ngữ mà phải nói những điều chân thật. Những điều này giúp cho đời sống sinh hoạt, cho nếp tu học của mình luôn được bình an. Có khi vui ta nói một câu gì quá lời, sau đó thấy hổ thẹn, bứt rứt khó chịu lắm. Cho nên phải cẩn ngôn, giữ gìn cái miệng nói những điều chân thật. Điều này khó chứ không phải dễ. Chính chư Tổ ngày xưa, áp dụng hành trì những điều này cũng phải trải qua những khó khăn. Cho nên các Ngài luôn khuyên nhắc chúng ta phải giữ vững lập trường, đầy đủ ý chí quyết tâm và chân thật, được vậy sẽ thành công. Tổ Hoàng Bá có làm một bài kệ thế này:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường,
Hệ bã thằng đầu tố nhất trường.
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,
Tranh đắc mai hoa phốc tỹ hương.
Tạm dịch:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường.
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường, để nói sống được với trí tuệ chân thật, làm chủ được mình, không bị trần lao kéo lôi, đó là việc làm phi thường.
Đầu dây nắm vững giữ lập trường, người muốn như thế phải giữ vững lập trường, dù có gặp bất cứ trở ngại nào hay sự khuyến dụ nào cũng không lung lay, chỉ một đường thẳng tiến.
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt, hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương, nếu không có công phu lạnh thấu xương, không va chạm cọ xát với khó khăn, thử thách thì không thể ngửi được mùi thơm của hoa mai, tức không thể nhận ra được của báu nhà mình nếu không có ý chí và công phu thâm hậu.
Những lời đó vừa giản dị vừa chí thiết để nhắc nhở công phu tu hành của chúng ta. Bình nhật ta nghe Phật pháp, thấy dường như mình có hiểu, có hành trì, nhưng thật ra công phu của mình hời hợt lắm. Cũng thờ Phật, tụng kinh, ngồi thiền nhưng đụng chuyện là ta phiền não thối Bồ-đề tâm ngay, vì không có quyết tâm, không có lập trường. Kết quả tu tập được thể hiện ở sự an vui giải thoát hay phiền não đau khổ ngay trong hiện đời, chứ không đợi đến bao giờ mới biết. Ví dụ hôm ấy ta ăn chay, nhưng có người đem món mặn thật ngon để gần, mời mình ăn. Ngay lúc ấy nếu ta không khởi một niệm nào, tâm không bị động bởi mùi vị mặn, tức biết mình đã giữ được lập trường. Chứ còn đang ăn chay, chợt nghe mùi vị hấp dẫn khác, tâm phóng nghĩ phải chi gắp được một miếng thì thích biết mấy, chỉ khởi nghĩ như vậy là không được rồi. Cho nên đối với việc tu hành, có khi khó khăn vô vàn nhưng có khi cũng dễ dàng lắm, tùy ở mỗi người.
Điểm thứ tư, người tu phải có sự định tỉnh. Có định tỉnh, trí tuệ mới phát sinh, trí tuệ phát sinh mới phá tan được mê mờ tăm tối làm cho chúng ta đau khổ từ bao đời. Có bài kệ nói về sự định tỉnh như thế này:
Tánh định ma phục ngày ngày vui,
Không sanh vọng tưởng chốn chốn yên,
Tâm dừng niệm dứt giàu sang thật,
Dục vọng trừ sạch thật phước điền.
Nếu người nào tâm tánh kiên định, chỉ chuyên một việc tu học, thì người này ngày nào cũng vui. Tại sao? Vì sống có chủ đích, cho nên không để tâm đến mọi thứ chung quanh, vì vậy phiền não không phát sinh. Ví dụ hôm nay quí vị đi chùa học pháp, thì chỉ đi chùa học pháp thôi, ai rủ rê đi đâu cũng không đi. Phấn khởi hạ quyết tâm như vậy thì việc tu ngày càng tăng tiến tốt đẹp. Nhờ thế những vọng tưởng dần dần lắng yên, vừa có dấy niệm mình biết là vọng. Nếu tâm không kiên định, không tỉnh sáng làm sao nhận biết vọng tưởng mà buông được. Vừa có niệm ta liền chao đảo thì sẽ bị nó kéo đi tức khắc, cho nên dễ duôi, xem thường, ngó qua ngó lại là đã mất mình.
Người khắc phục được vọng tưởng của mình là người giàu sang nhất, phúc lạc nhất vì sống trọn vẹn với kho báu nhà mình. Ở đây không yêu cầu ta thành Phật thành Tổ gì cả, chỉ làm sao định tâm, từng bước công phu thấy thực, làm thực thì sẽ an lạc ngay hiện đời. Hôm nay chưa được thì ngày mai, đời này chưa rồi thì đời sau, nhất định không ngán, không lui sụt.
Có một Thiền sư trong khoảng thời gian tu hành, Ngài bị bệnh nặng nên việc tu gặp trở ngại. Cuối cùng nhờ các huynh đệ thay đồ sạch sẽ, Ngài ngồi dậy thắp hương thầm nguyện khẩn thiết, con pháp danh… phát nguyện quyết tâm tu hành, nếu nghiệp tập nhiều đời khiến phải chết, đọa vào địa ngục, con cũng nhất định không quên tu. Sau khi đọa địa ngục rồi, con sẽ sớm gặp lại Tam bảo tiếp tục tu hành, khi nào thành Phật mới thôi. Lạ thay! Khi ngài khẳng tâm như vậy mồ hôi xuất hạn, từ đó bệnh tình thuyên giảm cho đến hết hẳn. Ngài nỗ lực công phu hơn nữa, cuối cùng ngộ đạo, thành tựu được sở nguyện của mình. Rõ ràng sức mạnh tinh thần là nhân tố quan trọng quyết định cho việc tiến đạo của chúng ta.
Vì vậy mong rằng tất cả người tu chúng ta phải nuôi dưỡng sức mạnh tinh thần, lập trường kiên định để tâm không dao động, không lui sụt. Có định tâm thì trí tuệ chân thật mới hiển bày. Trí tuệ chân thật đã hiển bày thì việc ngộ đạo và sống đạo không khó.
Trích “LẬP TRƯỜNG CỦA NGƯỜI TU”
Hòa Thượng Thích Nhật Quang