Ở Trung quốc có câu chuyện nhân gian vẫn kể là một làng nọ cả làng làm nghề sát sinh, chài lưới săn bắn thú vật tiếng kêu của sinh linh bị sát hại vang đến tận trời. Đức Quán Thế Âm thương xót đã thị hiện làm một thiếu nữ xin đẹp bán cá ở chợ. Trai làng thấy có người con gái quá đẹp kéo đến ngày càng đông và sau có cả các thương gia giầu có, quan sắc trong lành, phú hộ… ai cũng muốn ngắm và sẵn sàng bỏ ra số tiền cực lớn để cưới nàng làm vợ.
Thiếu nữ nói với mọi nam nhân trong làng rằng: “Số các vị nam đây có lòng muốn lấy ta quá đông mà ta chỉ có một thân này. Vậy ai muốn lấy được tôi thì làm một điều này thành công, tôi sẽ nhận gả lấy người đó”. Nói rồi nàng đưa cho họ cái rổ bảo ai đem nước mà đưa con cá chép vàng này vào mà nước không chẩy, cá vẫn sống như trong chậu thì người đó thắng.
Mọi người nói: “Nước sao có thể đựng trong rổ không chảy hết? Nàng làm vậy khác nào thách đố chọc giận coi thường chúng tôi là ngu sao ? ”
Thiếu nữ không nói, lẳng lặng ra sông đem rổ múc nước dưới dòng sông thì bỗng có con cá chép mầu vàng nhảy vào rổ mà bơi tung tăng trong đó. Thiếu nữ đưa rổ lên, con cá nằm rung lắc thân mình tức thì các vẩy vàng lấp lánh tung ra che hết các lỗ rổ, khiến nước không ra một giọt. Mọi người trố mắt kinh ngạc. Thấy vậy thiếu nữ liền nói: “ Các vị đã không làm được điều kiện mà tôi đã đưa ra, giờ tôi tuyên bố là nếu ai đêm nay đọc thuộc những lời văn sau mà thuộc lòng, sáng ra đọc lại không sót một chữ thì người đó sẽ là chồng của tôi”.
Cả làng đêm đó làng xóm đâu đâu cũng râm ran tiếng tụng bài Kinh câu văn thiếu nữ đã cho, cả ông già cũng cố gắng tụng cho thuộc để sáng mà ra thi.
Sáng hôm đó, mọi người ra thi thì hầu như ai ai cũng thuộc hết lầu làu. Thiếu nữ nói tất cả mọi người ở đây đều thuộc thì tôi biết chọn ai? Nói rồi thoắt cái thiếu nữ bay lên trên không trung, lúc này mới hiện thân là Bồ Tát Quán Âm, Ngài ngồi trên tòa sen tay cầm Bình thủ dương liễu. Con cá chép vàng nằm quẫy dưới chân rùng mình thì hiện ra là một vị đồng tử đứng hầu bên cạnh Ngài. Mọi người dân làng quì mọp đầu xuống đất mà lạy Ngài.
Hóa ra Kinh văn mà Ngài cho chính là Thần Chú Đại Bi. Ngài sau đó ôn tồn giảng cho họ nên bỏ nghề sát sinh, làm nghề khác như trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm dệt vải, làm mộc, làm thợ rèn… Dân làng nghe Quán Âm Bồ Tát dạy từ đó bỏ nghề ác làm đúng theo lời Ngài dạy và dựng chùa thờ Ngài và đúc tượng Quán Âm Bồ Tát là hình thiếu nữ bán cá tay cầm cái rổ có cá chép vàng. Bài văn mà cả đàn ông trong làng học thuộc đó chính là Thần Chú Đại Bi.
Lại có thời, khi Ngài thị hiện tu ở chùa trên núi, một hôm đi vào rừng gặp một con trâu. Thời đó loài trâu, bò không biết ăn rau cỏ mà là loài ăn thịt. Con trâu đã nhiều ngày không kiếm được mồi đói quá đang sùi bọt mép nằm đó. Nó thấy có bóng người nữ đi đến, nó mừng rỡ xông ra gương sừng định húc chết Ni cô. Nó xô đến hung hăng lắm nhưng lạ thay Ni cô không giống như bao người sợ sệt hoảng loạn ngất xỉu trên đất như nó đã gặp mà vẫn thản nhiên chẳng chút sợ sệt. Vì thấy lạ, nó hỏi Ni cô rằng: “Mi không sợ ta húc chết và ăn thịt mi sao? ” .
Ni cô nói: “Làm sao ta phải sợ?” Ta sẽ giết người mà ăn thịt vì ta đã mấy ngày không có gì vào bụng. Nếu không giết mi ăn thịt thì ta cũng sẽ phải chết đói.
Ni cô nghe xong nói: “Nếu ngươi không có gì ăn mà phải chết đói thì đây thân ta sẵn làm đồ ăn cúng dường ngươi”.
Nói rồi Ni cô ngồi xuống chắp tay niệm Phật để hiến thân cho trâu đói.
Con trâu nghe xong nó cảm động quì phục hai chân trước mà nói rằng: “Tôi không thể ăn thịt người !”
Ni cô nói: “nếu ngươi mà không ăn ta thì ngươi sẽ chết đói, vậy sao không ăn?”
– Nó nói tôi không nỡ ăn thịt người đã có lòng tốt hiến thân để nuôi sống tôi.
Lúc ấy, Ni cô mới hiện thân Quán Âm Bồ Tát mà nói với con trâu: “Nếu từ nay ngươi không tìm được món ăn mà có lòng hướng thiện thì Ta sẽ cho người thứ đồ ăn mà tìm kiến dễ dàng không phải phạm tội sát sinh. Người có chịu không? ”
Trâu gục đầu xuống đất mà lạy và mong muốn được như thế. Nó xin Ngài cho nó được ân phước đó và thề nguyện lấy sức mình giúp ích cho người cà y , bừa làm ra lúa gạo, kéo gỗ dựng nhà v.v…
Quán Âm Bồ Tát đã phất nhành dương liễu dưới nước trong bình Cam Lồ trên mặt đất, thoắng một lát một mầu xanh phủ dầy dần trên mặt đất. Ngài nói: “Đó là món ăn của con đó!”
Từ đó loài trâu bò không ăn thịt muôn loài mà món ăn của nó chính là cỏ. Vì câu chuyện đó mà rất nhiều người đã từ bỏ ăn thịt trâu, bò và coi nó như người bạn thân của mình, của mọi nhà. Ngày nay còn vài nơi có chùa thờ đức Quán Thế Âm và có tượng con trâu ở bên tượng Ngài.