Cốt lõi của sự học và hành theo giáo pháp Đức Phật nằm trong phương châm: “Không làm các điều ác, chăm làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch, là lời chư Phật dạy” (Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo).
Tuy nhiên nếu không quán triệt được như thế nào là điều thiện, như thế nào là điều ác thì không thể thực hành lời dạy trên, không thể làm đúng để có được kết quả tốt.
Quan niệm về thiện – ác của mỗi tôn giáo, mỗi hệ tư tưởng có những điểm không giống nhau. Từ đó tư duy, hành động, lối sống, đường hướng tu tập, rèn luyện bản thân, trau giồi đạo đức, phẩm hạnh cũng ít nhiều khác biệt. Bài viết này chỉ xin bàn về đạo đức hay quan niệm về thiện – ác trong Phật giáo.
Lẽ thiện và ác thường được nói đến là chân lý tương đối chứ không phải chân lý tuyệt đối. Theo Phật giáo, chân lý tuyệt đối siêu việt thiện ác, không phải là những quan niệm trong vòng đối đãi nhị nguyên. Trên bình diện tương đối, thiện là những điều tốt đẹp, cao cả được xã hội chấp nhận, phù hợp với quy luật phát triển, có ích cho con người và sự tiến bộ của xã hội trong những giai đoạn, thời điểm nhất định, đáp ứng nhu cầu của lịch sử. Con người sống thiện hay ác, thiên về thiện nhiều hay ác nhiều sẽ quyết định sự ổn định hay không ổn định, hưng thịnh hay suy vi của gia đình, xã hội, quốc gia, thế giới.
Ví dụ như tình hình nhân loại hiện nay, vì con người phá hoại môi trường sống, lạm dụng nguồn tài nguyên đến mức cạn kiệt, tham lam hiếu chiến thường gây chiến tranh, sống cuồng thác loạn trong đời sống vật dục, đạo đức suy đồi, từ đó dẫn đến biến đổi khí hậu, thiên tai dịch họa khắp nơi, nguy cơ chiến tranh thế giới, nguy cơ bị hủy diệt toàn cầu do vũ khí tối tân, do môi trường bị hủy hoại, do biến đổi khí hậu gây nên.
Về phương diện cá nhân, người đệ tử Phật hành thiện và tránh ác như thế nào để góp phần xây dựng gia đình, xã hội, quốc gia, thế giới an vui, hạnh phúc? Trong kinh Giáo giới La-hầu-la (Trung bộ kinh II, kinh số 61, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật dạy Tôn giả La-hầu-la như sau:
– “Này La-hầu-la, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành thân nghiệp; Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành khẩu nghiệp; Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành ý nghiệp. (Điều này có nghĩa là trước khi tạo nghiệp thân, hoặc khẩu, hoặc ý cần phải cân nhắc, suy xét cẩn thận).
– (Trước khi làm, khi có ý muốn, ý định làm) Này La-hầu-la, nếu trong khi phản tỉnh, con biết ‘thân nghiệp này ta muốn làm, thân nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ. Một thân nghiệp như vậy, này La-hầu-la, con nhất định chớ có làm. Này La-hầu-la, nếu sau khi phản tỉnh con biết ‘thân nghiệp này ta muốn làm, thân nghiệp này của ta không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc. Một thân nghiệp như vậy là thiện, này La-hầu-la, con nên làm.
– (Khi đang làm) Này La-hầu-la, khi con đang làm một thân nghiệp, con cần phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: Thân nghiệp này ta đang làm, thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ. Này La-hầu-la, nếu trong khi phản tỉnh, con biết thân nghiệp đang làm là bất thiện, như vậy thì con hãy từ bỏ thân nghiệp đó. Nhưng nếu, này La-hầu-la, trong khi phản tỉnh, con biết như sau: Thân nghiệp này ta đang làm không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc. Thân nghiệp như vậy, này La-hầu-la, con cần phải tiếp tục làm.
– (Sau khi đã làm xong) Này La-hầu-la, sau khi con làm xong một thân nghiệp, con cần phải phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: Thân nghiệp này ta đã làm, thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người khác, đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ. Nếu trong khi phản tỉnh, này La-hầu-la, con biết như sau: thân nghiệp này ta đã làm, đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ. Một thân nghiệp như vậy, này La-hầu-la, con cần phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước các vị đạo sư, hay trước các bậc có trí đồng phạm hạnh. Sau khi đã thưa lên, đã tỏ lộ, trình bày, cần phải phòng hộ trong tương lai. Lại nữa, nếu trong khi phản tỉnh, này La-hầu-la, con biết như sau: Thân nghiệp này ta đã làm, không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem lại quả báo an lạc. Do vậy, này La-hầu-la, con phải an trú trong niềm hoan hỷ, tự mình tu học ngày đêm trong các thiện pháp”.
Đó là đối với hành động, việc làm của thân. Đối với suy nghĩ của ý nghiệp và lời nói của khẩu nghiệp, Đức Phật cũng dạy tương tự như thế, đều cần phải thận trọng xem xét bản chất, tác dụng, hậu quả của nó trước khi, trong khi và sau khi tạo nghiệp.
Chúng ta phải cân nhắc, xem xét cẩn thận những suy nghĩ, lời nói, hành động của mình. Phải cân nhắc trước khi, đang khi và sau khi tạo các nghiệp từ thân, khẩu, ý. Nếu đó là suy nghĩ, lời nói, hành động thiện lành, có lợi cho mình, cho người, cho cả hai thì chúng ta nên tiếp tục duy trì, phát triển thêm hơn. Nếu đó là suy nghĩ, lời nói hay hành động có hại cho mình hoặc cho người, hoặc cho cả hai thì cần phải chấm dứt, không tiếp tục, không tái phạm, biết ăn năn sám hối.
Trong bài kinh trên Đức Phật cho biết điều thiện là những gì mang lại lợi ích, an lạc, hạnh phúc cho mình, cho người hoặc cho cả mình và người, không gây hại cho bất cứ ai. Điều bất thiện hay điều ác là những gì có hại cho mình hoặc cho người, hoặc có hại cho cả hai.
Quan niệm thế gian hạn hẹp thường cho rằng những việc làm gây hại cho người khác, khiến người khác khổ não, bất an, tổn thất về bản thân hoặc tài sản sở hữu, hoặc người thân liên hệ, như thế mới gọi là điều ác. Nhưng theo lời Phật dạy, những việc làm gây hại cho chính bản thân mình do tự mình làm cũng bị xem là điều ác. Đây quả thật là một quan niệm rộng rãi và tích cực. Bởi có những hành động không trực tiếp gây hại cho ai nhưng lại làm hại chính bản thân mình, đó cũng là những hành động tiêu cực làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng đến sự an ổn, hưng thịnh của gia đình, xã hội.
Ví dụ như hành động tự sát, hành động tự làm tổn thương thân thể mình vì oán hận một ai đó; những người buông mình trong sa đọa trụy lạc, tự phá tán tài sản, sự nghiệp của mình, tự hủy hoại thân thể, sức khỏe của mình bằng rượu bia, ma túy v.v… Mỗi con người là một phần tử của xã hội, có quan hệ cộng sinh cộng tồn với xã hội, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến xã hội, vì thế mỗi cá nhân sống có trách nhiệm với bản thân mình cũng là có trách nhiệm với xã hội.
Khi đã ý thức được đâu là điều thiện, đâu là điều ác, bất thiện, người Phật tử không rơi vào những sai lầm, lệch lạc trong nhận thức và hành động, trong đời sống và tu dưỡng đạo đức; không điên đảo thị phi, chánh tà. Sống theo điều thiện, người Phật tử chẳng những kiến tạo cho mình đời sống an vui, hạnh phúc, mà còn góp phần xây dựng xã hội và thế giới tốt đẹp, vững bền.